Hiện Đang Truy Cập TPL_BEEZ5_ISCLOSED

We have 820 guests and no members online

058075931
Today
Yesterday
This Week
This Month
All days
5254
67297
288584
1814749
58075931

01:52 _ 29-03-2024

World Time

 USA - CA - Los

USA - TX - Houston 

Canada - Toronto

 Germany - Berlin

Việt Nam - Sài Gòn

Japan - Tokyo

 

Australia - Sydney  

WeatherAholic

Sydney

Phat Phap

Select a news topic from the list below, then select a news article to read.

5 bước giúp hóa giải tính ghen tức (Thiện Ý):

1.Tỉnh giác, chánh niệm: Khi chúng ta bị tính ghen tức trói buộc, chúng ta tỉnh giác quay vào chính cái cảm xúc đang bám chặt lấy mình. Điều này khó làm vì đặc tính mâu thuẩn giữa sự hờn ghen và tham muốn, luôn cả cảm giác nhục nhã và tự trách. Bất kể là cảm xúc gì, chúng ta chỉ đơn giản nhận biết chúng và để cho chúng đi, đừng níu kéo hay giữ lại.    

2. Nhận thức sâu sắc: Sau khi chúng ta đã có thể nhận dạng những cảm xúc xuyên qua chánh niệm, chúng ta gạt qua một bên những mẫu chuyện hoặc lời thuyết minh mà đưa đến sự ghen tức. Những câu chuyện này cung cấp nhiều năng lượng cho tính ghen tức của mình đến độ mình tin nó là sự thật – chúng ta cảm thấy mình có lý do chính đáng để tức giận, hờn tủi, và tham muốn, và chính vì vậy mà mình không thể tiếp xúc với tuệ giác nằm bên trong những cảm xúc đó. Bây giờ, mình lui lại một bước và tự hỏi, ghen tức là cái gì? Mình cảm nhận nó ra sao? Ở chỗ này, nếu mình có thể ghi chú xuống được thì hay, nhưng đừng có kể lể dài dòng. Mình cảm nhận tính ghen tức trong con người mình và trong tâm thức ra sao? Tình cảnh của sự ghen tức là gì?
Khi ghi chú những cảm xúc, các bạn nên làm như tôi đã làm. Cơ thể mình cảm thấy thế nào ngay lúc này; trong ngực, trong miệng, trong bụng, và cánh tay? Đau nhói trong ngực, miệng nghiến chặt. Hình tượng nào mô tả rõ nhất? Không thể thở, cảm thấy ngộp, như đang bị ai bóp cổ. Mùi vị của cảm xúc đang chạy nhảy trong đầu ra sao trong từng giây phút? Tơi tả, tuyệt vọng, sợ hãi, phản bội, nhục nhã. Trong tâm mình cảm thấy như thế nào? Suy nghĩ lung tung, chạy qua chạy lại giữa oán hờn và tham muốn.
Rồi chúng ta lại hỏi, những cái này có gì đau khổ?  Đối với tôi, bước ngoặt quan trọng nằm trong câu hỏi này. Vâng, ghen tức đau khổ lắm, cái đau không thể nhịn chịu được. Nhưng nó đau ra làm sao? Cái đau nằm trong chính cái cảm nhận của mình, như tôi đã mô tả rõ rệt trong nhật ký: cái đau đớn về thể xác, cảm xúc, và cả tâm linh. Luôn cả cái đau khổ mà nó xui khiến mình phải làm theo. Tôi muốn làm khổ ai đó; tôi muốn làm khổ chính tôi nữa. Tôi không thể kềm chế nổi chính mình.

3. Giải thoát niềm đau: Khi chúng ta thấy rõ cái khổ đau do ghen tức mang lại, đây là lúc mình thấy được chân lý. Mình cảm nhận niềm đau trực tiếp, thay vì do bị xúi dục bởi đầu mối câu chuyện khiến mình ghen tức và thành nạn nhân bị hành hạ đủ điều không dứt. Có thể bạn cần có thời gian, nhưng rốt cuộc rồi bạn cũng cảm nhận được nó.  
Trong kinh Phật dạy rằng khi mình thật sự cảm nhận được nỗi đau khổ trực tiếp, chúng ta ngay lập tức buông bỏ, cũng giống như khi mình cầm lên cái chảo sắt đang nóng bỏng khiến mình rút tay lại. Khi chúng ta cảm thấy cái đau khổ cùng cực và không thể chối cải của tính ghen tức, mình sẽ muốn được giải thoát khỏi chúng ngay. Mình cảm thấy nó, mình liền buông ra.

4. Hoan hỉ: Cái gì xảy ra khi chúng ta buông xả? Trước hết, lớp nhám nhúa nhất của sự xúc cảm là giận hờn biến mất. Đây là một cú thở phào nhẹ nhỏm vì chúng ta biết được rằng sự hờn giận kia sẽ không mang lại kết quả như ý muốn; đúng ra, nó nhanh chóng và chắc chắn khiến mình lìa xa những điều mình muốn làm. Kế đến là sự vướng mắc đối với lòng tham cầu.
Đức Phật xem ‘vô cầu’ là điểm then chốt trong lúc thiền quán. Thực vậy, chỉ cần nhận thức được khổ đau thì cơn thèm khát của cầu mong sẽ có thể biến mất nhanh chóng. Cái gì sẽ còn lại khi hờn giận và tham cầu yếu đi? Chúng ta tưởng rằng mình sẽ kiệt sức khi hờn giận và tham cầu được trút bỏ, nhưng điều đó không đúng như vậy. Có một thoáng của sự hoan hỉ xuất hiện khi không gian của sự tự do được giải phóng. 
Hoan hỉ là niềm vui không vị kỷ, cho phép mình vui mừng với hạnh phúc và may mắn của người khác. Nó được xem là vô hạn vì nó đến từ tính vị tha sẵn có và bản chất lành thiện của tất cả chúng ta. Biết thưởng thức hoan hỉ là một tiến trình diễn tả cá tính nhân bản tự nhiên của con người.
Nền móng của sự dính mắc và tham lam, dù nằm ngay trong tâm điểm của sự ghen tức, chúng vốn có một năng lượng căn bản là tình thương và sự quan tâm chân thật – ngọn lửa của sự khát khao. Khi những đức tính xoay quanh bản ngã được giải phóng do nhận thức ra sự đau khổ, tình thương yêu được t do để trở thành niềm hoan lạc mênh mông. 

Hoan hỉ cổ vũ cho hạnh phúc và thành công của người khác và vui mừng với sự khỏe mạnh và tươi mát của họ bất cứ khi nào họ được thụ hưởng. Nhưng ở thời điểm này, chúng ta chỉ mới thoáng thấy niềm hoan hỉ được tán dương – nó cần phải được nuôi dưỡng thêm.  


5. Khai Thác: Chúng ta phải thực tập mỗi ngày để ổn định và đào sâu niềm hoan hỉ của mình đối với hạnh phúc và thành công của người khác, thay vì ghen tức. Trước hết, chúng ta hướng tâm mình đến người nào mà mình biết vốn thường vui vẻ và hạnh phúc. Nó có thể là một người bạn, người làm chung sở, một đứa bé, hay một vị thầy tâm linh.  
Chúng ta quán tưởng người này đang dâng trào niềm vui và nâng niu niềm hoan lạc này với lòng biết ơn. Người bạn luôn hoan hỉ này của ta tạo ra một khung cảnh thật đặc biệt khi anh ta có mặt ở bất cứ nơi nào! Thật là tuyệt vời làm sao? Rồi chúng ta thực tập hòa nhập vào niềm vui của người bạn này, cũng như dâng trào lòng biết ơn, niềm hoan hỉ, và tạo ra một khung cảnh tươi vui. Chúng ta tiếp tục ca tụng người bạn đang hỉ lạc này và cảm nhận thấy đời mình bỗng nhẹ tưng và sáng sủa trong lúc đang làm vậy. Thực là một tài năng đặc thù khi mình có thể chúc mừng sự thành công và hạnh phúc của người khác!
Cuối cùng, điều quan trọng là, trong khi mình cố gắng thực tập tán thưởng lòng hoan hỉ, mình liền hướng sự thực tập này về người hay hoàn cảnh mà khiến mình sinh ghen tức. Mình có thể tiếp tục cảm nhận niềm vui, hoan hỉ đối với sự thành công và hạnh phúc của người này hay không? Nếu ghen tức lại nổi lên, chúng ta lại quay về quán niệm cái cảm giác ghen tức, đặc tính giam hãm, tù ngục, và cơn đau khủng khiếp của nó.
Tất cả những thực tập này có khi kéo dài cả năm – Tôi đã trải qua thời gian như vậy. Nhưng tính ghen tức sẽ không bao giờ trực tiếp mang đến hạnh phúc; nó chỉ làm mình khổ thêm mà thôi. Rốt cuộc rồi, biết quý trọng sự hoan hỉ mới là liều thuốc chữa lành căn bệnh ghen tức và hoá giải được con quỷ chất độc, mắt xanh.

Sưu tầm

Ý NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO

 Cách đây hơn 25 thế kỷ, ở tại Bồ-đề Đạo Tràng (Ấn Độ), Bồ Tát Tất-đạt-đa sau sáu năm tu khổ hạnh và 49 ngày đêm ngồi tĩnh tọa dưới cội Bồ-đề để thể nhập chân lý, chứng đắc quả vị tối thượng trở thành Phật Thích-ca-mâu-ni. Ánh đạo vàng Ngài phát huy ra sáng soi vạn loại trải qua bao thiên niên kỷ. Ngày nay, những người con Phật khắp năm châu đang hướng về Bồ-đề Đạo Tràng để kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo. Sự kiện Phật thành đạo có ý nghĩa lớn lao đối với Đạo Phật: chính thức xuất hiện vị Giáo chủ Thích-ca-mâu-ni để dắt dẫn chúng sanh hướng về nẻo giác. Nhân ngày kỷ niệm Phật thành đạo Phật lịch 2562 và chào mừng thiên niên kỷ mới, Tăng-Ni, Phật tử hơn lúc nào hết, cần thấu đạt ý nghĩa Phật thành đạo, xác định rõ con đường Ngài đi, đích Ngài đến để bày tỏ tâm thành tri ân đối với vị Đạo sư đã sáng soi chánh đạo, phát sâu chí nguyện đi trọn hành trình này trong kiếp sống nhân sinh. Hiểu rõ ý nghĩa Phật thành đạo là điều kiện tiên quyết để tiếp nối bản nguyện của chư Phật mười phương.

Cách đây hơn 25 thế kỷ, ở tại Bồ-đề Đạo Tràng (Ấn Độ), Bồ Tát Tất-đạt-đa sau sáu năm tu khổ hạnh và 49 ngày đêm ngồi tĩnh tọa dưới cội Bồ-đề để thể nhập chân lý, chứng đắc quả vị tối thượng trở thành Phật Thích-ca-mâu-ni. Ánh đạo vàng Ngài phát huy ra sáng soi vạn loại trải qua bao thiên niên kỷ. Ngày nay, những người con Phật khắp năm châu đang hướng về Bồ-đề Đạo Tràng để kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo. Sự kiện Phật thành đạo có ý nghĩa lớn lao đối với Đạo Phật: chính thức xuất hiện vị Giáo chủ Thích-ca-mâu-ni để dắt dẫn chúng sanh hướng về nẻo giác. Nhân ngày kỷ niệm Phật thành đạo Phật lịch 2562 và chào mừng thiên niên kỷ mới, Tăng-Ni, Phật tử hơn lúc nào hết, cần thấu đạt ý nghĩa Phật thành đạo, xác định rõ con đường Ngài đi, đích Ngài đến để bày tỏ tâm thành tri ân đối với vị Đạo sư đã sáng soi chánh đạo, phát sâu chí nguyện đi trọn hành trình này trong kiếp sống nhân sinh. Hiểu rõ ý nghĩa Phật thành đạo là điều kiện tiên quyết để tiếp nối bản nguyện của chư Phật mười phương.

Thái tử Tất-đạt-đa thuộc giai cấp Sát-đế-lị, dòng họ Thích-ca, là con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya. Khi trưởng thành, Thái tử tìm cách thoát ra ngoài bốn bức tường bưng bít của ngai vàng điện ngọc để cảm nhận thực tế của cuộc sống đương thời và nỗi khổ lụy chung về sanh, già, bệnh và chết mà mọi người phải gánh chịu.

Trở về thành Ca-tỳ-la-vệ, dù ngày đêm ở bên cạnh người vợ hiền thục và kiều diễm bậc nhất, bao bọc bởi tiếng nhạc du dương cùng sơn hào hải vị của tiệc hội với đám tùy tùng đại diện thần dân túc trực, hầu hạ, chìu theo; Thái tử vẫn không sao quên được những nỗi đau buồn nhân thế và vòng quẩn quanh của kiếp sống. Những quyến rũ của vật dục thường tình không kềm hãm nỗi một tâm hồn cao cả muốn vươn tới những gì có ý nghĩa hơn, cao cả hơn, đưa đến hạnh phúc thật sự và nẻo thoát cho mọi loài. Ngài tâu với Phụ hoàng xin phép rời thành, xuất gia tầm đạo. Vua Tịnh Phạn ngạc nhiên không hiểu được con mình còn thiếu món gì và đi tìm kiếm những gì? Thái tử trả lời là đi tìm con đường thoát khỏi nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết và mang đến hạnh phúc lâu bền cho chúng sanh. Phụ vương không chấp nhận thỉnh cầu này. Cuối cùng đến năm 29 tuổi, Thái tử lúc đang đêm âm thầm từ giã Phụ vương, Mẫu hậu, vợ con, Hoàng gia và muôn họ, vượt thành để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của giác ngộ và tầm câu chơn lý.

Khắc khoải với lý tưởng cứu độ chúng sanh, Đạo sĩ Cù-đàm thấy thất vọng với những mục đích tối hậu của những đạo sĩ trứ danh nhất thời bấy giờ như Alara Kalama, Uddaka Ramaputta sau khi Ngài được những bậc thầy đó thừa nhận là đã chứng đạt được những tầng bậc cao nhất về niềm tin, năng lực, thiền định, trí tuệ và an lạc mà chỉ có họ và Ngài mới từng kinh nghiệm qua vì rốt cuộc nếu thoả mãn và dừng lại tại đây cả họ và Ngài rồi cũng bị trôi lăn trong nẻo luân hồi sanh tử. Nên sau đó, Ngài quyết định tự mình dấn thân trong một cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu, tìm tòi chân lý nhiệm mầu.

Theo niềm tin phổ biến thời đó, những vị xuất gia thoát tục cần tu tập khổ hạnh mới chứng đạo quả cao sâu. Hành giả Cồ Đàm trải qua nhiều phương pháp tu khổ hạnh tột bực được mô tả trong kinh Mahasaccka Sutta như: nghiến răng, đè lưỡi, tập trung cắt đứt tư tưởng, nín thở, nhịn ăn, … và chịu đựng sự bức bách đau đớn khôn cùng nơi thể xác. Vóc dáng cường tráng, phương phi của Thái tử Tất-đạt-đa, một thời là hiện thân niềm kiêu hãnh của kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, sau sáu năm tu khổ hạnh chỉ còn lại tấm thân gầy trơ nắm xương da như ngọn lửa sắp tắt lụn.

Nhận thấy mục tiêu chưa đạt được mà thần chết đã cận kề nên Ngài quyết định thay đổi phương pháp tu hành, duy trì tấm thân mình để còn tiếp tục hành trình. Ngài nhận bát vàng đựng sữa với mật ong dâng cúng của nàng Sujata, con gái của Nadaca, vợ của trưởng giả Senani để phục hồi sức lực cho giai đoạn quyết định. Năm anh em Kiều Trần Như nghĩ rằng Ngài đã thối lui hạnh nguyện nên rời bỏ Ngài đi đến vườn Lộc Uyển tu riêng. Không thối chí, một mình một bóng, Ngài đến tắm nước sông Ni-Liên-Thuyền, thả bát vàng xuống sông để xác tín chí nguyện, rồi nhận bó cỏ kiết tường do một lão nông phu cạnh bờ sông dâng cúng, mang đến Gaya, nơi gốc cây Tất Bát La trải bó cỏ ngồi thiền và tự phát nguyện lớn:

“Nếu ta ngồi đây mà không tìm ra đạo lý nhiệm mầu, không tìm ra lẽ huyền vi của vũ trụ vạn pháp thì dù thịt nát, xương tan, ta quyết không rời bỏ chỗ này.”

Sau 49 ngày đêm thiền định, quán sát không gián đoạn, vào đêm cuối cùng khi nhìn sao mai mọc, Ngài chiến thắng tất cả ma quân, tượng trưng cho những tầng lớp vô minh của tâm thức từ vô thủy, chứng được Lục thông, Tam minh và thành Phật với danh hiệu Thích-ca-mâu-ni. Cây Tất-Bát-La trở thành cây Bồ-đề (cây Giác ngộ) và đất xung quanh cây Bồ-đề trở thành thánh địa gọi là Bồ-đề Đạo Tràng. Năm ấy Ngài 35 tuổi.

Nghiên cứu về lịch sử của Đức Phật, chúng ta thấy Ngài vừa là con người thật, cụ thể mang tính chất lịch sử vừa là con người biểu tượng. Ở nơi Ngài luôn chứa đựng những chân lý sống động, cao sâu. Học Đạo Phật, người Phật tử tiếp cận Thân giáo, Khẩu giáo và Ý giáo từ Đức Bổn Sư. Nhất cử, nhất động, nhất niệm, nhất ngôn của Đức Phật đều là những bài học quý giá, thiết thực muôn đời. Sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Đức Phật, Phật thành đạo, hẳn nhiên để lại cho quần sanh bao ý nghĩa, diều dụng không thể nghĩ bàn.

Trước hết, Phật thành đạo có ý nghĩa đối với bản thân Ngài là một thành công viên mãn. Có trải qua biết bao tháng ngày dài trăn trở quên ăn bỏ ngủ, sáu năm trường khổ hạnh, công phu nhọc nhằn gạn lọc chân lý cạn sâu, dám hy sinh thân mạng và tất cả mọi thứ trên đời để tìm tòi mối đạo mới cảm nhận hết giá trị chói lọi huy hoàng của cái Ngày lịch sử Ngài được suy tôn lên ngôi Đại Giác. Một niềm an lạc sung mãn thấm đượm nơi Ngài đến nỗi Ngài trải qua tuần lễ đầu tiên sau khi Thành đạo để chứng nghiệm hạnh phúc tâm linh giải thoát và chính thức tuyên ngôn đoạn tuyệt với vòng luân hồi sanh tử khổ đau: “Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi đi mãi. Như Lai đi tìm mãi mà không gặp. Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này. Lập đi lập lại đời sống quả là phiền muộn. Này hỡi người thợ làm nhà, Như Lai đã tìm được ngươi. Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông của ngươi dựng nên cũng bị phá tan. Như Lai đã chứng quả Vô sanh bất diệt và Như Lai đã tận diệt mọi ái dục.”

Phật thành đạo không chỉ là một cuộc chinh phục vĩ đại, một chiến thắng vẻ vang đối với bản thân Ngài mà còn là một sự khai sáng tuyệt vời cho hết thảy nhân loại, chúng sanh vì chí nguyện xuất gia của Ngài là để tìm phương cứu chữa cho đời sống chúng sanh ngập chìm trong đau thương, tăm tối như chính lời Ngài phân tỏ với Xa-Nặc lúc chia tay: “Chính vì đêm tối Ta mới đi tìm ánh sáng.” Trong khoảng thời gian 49 năm còn lại của đời mình, Ngài soi rọi Ánh Đạo Vàng đến khắp muôn phương và hiển thị rõ ràng rằng: “Nếu cõi đời không đau khổ tối tăm, Đức Phật đã chẳng xuất hiện ở đời.” Ngài ra đời là “Vì an lạc của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người” (Tăng Chi I). Động cơ cao thượng này khiến Ngài cảm thất thất vọng nơi chứng đắc tối hậu của hai đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta mà bỏ ra đi.

Lời thố lộ tâm sự của Ngài với một chú cừu con què chân xấu số khi Ngài bế nó theo kịp cừu mẹ đến đàn tràng hy sinh tế lễ do Vua Tần-bà-sa-la tổ chức trong bước đường Ngài bôn ba tìm chơn lý phản ánh một tình thương lớn, chí nguyện lớn và trí tuệ lớn, cung cách ấy chỉ biểu lộ ở bậc thánh nhân: “Dù con về xa đến đâu, ta cũng sẽ bồng con theo mẹ con đến đấy. Trong lúc ta chưa tìm ra được phương thuốc để cứu độ toàn thể chúng sanh, thì ít nữa, ta cũng cứu được một mình con thoát khỏi đau khổ. Vì như thế còn hơn là ngồi trên núi như những kẻ tu hành kia để tự hành hạ thân xác và để cầu được thoát khổ với những vị thần bất lực.” Ngài đã khuyên nhà vua đừng giết súc vật để tế thần. Đạo của Ngài là Đạo cho đời, Đạo của tình thương, đại nguyện của Ngài là cứu độ toàn thể chúng sanh thoát vòng đau khổ. Đó không phải là một Đạo đưa đến những sự chứng đắc lửng lơ, không ăn nhập với cuộc sống con người.

Sự kiện Phật thành đạo càng có ý nghĩa cứu tinh hơn nữa nếu chúng ta nhìn nhận vào chính ngay trong lòng xã hội thời Đức Phật. Thời kỳ này nảy sinh quá nhiều tư tưởng gia, gần một trăm hệ phái thần học, triết học khác nhau. Xã hội thật vô cùng phức tạp: tình tràng tâm linh con người rất đen tối, sự xáo trộn về trật tự gia đình, xã hội, tín ngưỡng đã bộc phát một cách mãnh liệt ở ngay nội tâm và ngoại giới. Con người lúc ấy chỉ còn là nạn nhân của các thánh kinh và các Đạo giáo. Tình trạng thật bi đát cho phụ nữ, cho giai cấp thấp bị bóc lột lao động và đối xử phân biệt, chiến tranh và thống trị diễn ra thường xuyên. Giữa hoàn cảnh bế tắc ấy, Đức Phật xuất hiện như một mặt trời sáng rỡ buổi sáng mai xua tan đi những bóng tối của đêm đen dày đặc đang che phủ cuộc đời. Không tuyên bố chính thức nhưng Ngài thực sự là một nhà cách mạng xã hội chân chính, mang đến bao nhiêu sự đổi đời theo chiều hướng tốt đẹp.

Nhìn lại hành trình đã đi qua, chúng ta càng thấm thía giá trị của tự nỗ lực và thực hành trong Phật giáo. Sự thành đạo của Ngài là kết quả tự nhiên của tự tu tự chứng chớ không mảy may chứa đựng bóng mờ của giao cảm với thần linh hay cứu rỗi. Hình ảnh gầy gò tiều tụy của Ngài trong sáu năm đăng đẳng nời Khổ hạnh lâm là ấn tượng sâu đậm nhắc nhở chúng ta tinh tiến trên con đường đã được khai quang bằng phẳng vì:

“Nếu chẳng bao phen sương buốt lạnh,

Hoa mai đâu tỏa ngát mùi hương!”

Suốt quãng đời giáo hóa, Ngài không ngớt nhắc nhở chúng ta qua bao lời dạy nời kinh điển ghi lại: “Các con hãy tự mình cố gắng, Đức Như Lai chỉ là bậc Đạo Sư,” hay “Hãy tự mình làm hòn đảo, làm nơi nương tựa cho chính mình” và “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.” Đạo Phật chú trọng ở thực chứng: nước nóng lạnh uống vào tự biết chớ không chuyên hý luận suông, sáo rỗng vô ích hay cuồng tín và cầu nguyện che chở từ quyền uy tột bực của các đấng siêu nhiên. Con đương đời tranh đua danh lợi đã khó huống nữa là con đường “Nghịch lưu” cắt đứt dòng triền miên của sự sanh tử luân hồi đưa đến giải thoát tối hậu? Mỗi người Phật tử phải là một hành giả, một chiến sĩ trung kiên trên chiến trường thầm lặng vì chính những vô minh phiền não nơi bản thân ta là những kẻ thù nguy hiểm nhất và: “Chiến thắng vẻ vang nhất là tự thắng được lòng mình.”

Một bài học mà Đức Phật suýt nữa phải trả giá bằng chính cái sinh mạng của mình mới nhận được và Ngài dạy lại thật ấn tượng ngay lời mở đầu của kinh Chuyển pháp luân cho năm anh em Kiều-trần-như, những người đã từng là bạn đạo đồng hành, chia xẻ cực nhọc tột bực với Ngài trên đỉnh Tuyết sơn, là: “Có hai tuyệt lộ mà người tìm chơn lý không nên theo. Hai tuyệt lộ ấy là những gì? Ấy là con đường buông lung theo dục lạc thấp hèn bất tịnh, không phù hợp với mục đích, và con đường khổ hạnh ép xác không sáng suốt, không phù hợp với mục đích. Không theo hai đường ấy, người tìm chơn lý giữ theo Trung Đạo, con đường đưa đến tuệ giác, đến tri kiến, đến sự tỉnh thức, Niết-bàn … Ấy chính là con đường cao cả của Bát chánh đạo …” Đó là con đường của Giới, Định, Tuệ và Lục độ ba la mật. Như một dây đàn không quá chùn hay quá căng sẽ phát ra những âm thanh du dương, vi diệu, sự tu tập cần phải tránh hai cực đoan: lợi dưỡng, thọ hưởng, trụy lạc với vật dục và ép xác, cưỡng bức quy luật phát triển tự nhiên, tham cầu chứng quả tức khắc. Phật tử phải là người cảm nhận an lạc, giải thoát, thăng hoa trong từng bước chân, từng hơi thở của cuộc sống hàng ngày. Bình thường tâm thị đạo.

Quan trọng hơn hết là chúng ta phải nhận chân được sự thành đạo chẳng qua là một sự trở về. Thực ra Đức Phật đã không vươn đến một ngôi vị cao xa, hay nắm bắt trong tay một đối tượng đặc biệt làm dấu ấn cho riêng mình mà đó là sự hiển lộ của gương sáng tự tâm sau khi bụi mờ vô minh đã tiêu tan. Sau này, Ngài dạy tất cả chúng sinh đều có: Phật tánh, Niết-bàn tự tánh, Viên giác diệu tâm, Chân như thật tánh, Bản lai diện mục, Như lai tạng … Chúng ta mãi trầm luân sanh tử vì chúng ta như những cùng tử mang viên ngọc trong chéo áo mà không hề hay biết để đi lang thang, “bụi đời” khắp trong thiên hạ. Đó cũng là ý nghĩa mà Ngài dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương: “Tu nhi vô tu, hành nhi vô hành, chứng nhi vô chứng.” Nếu có ai đó trong chúng ta cảm thấy sự dị thường, vượt trội chấp nhặt và hãnh diện nơi sở đắc thì nên tự xem xét lại sự tu tập của chính mình.

Trong lịch sử nhân loại, chúng ta chưa hề thấy ai đã từng đề cao tinh thần bình đẳng như Ngài. Ngài bức xúc và chấn động tinh thần cao độ khi nhìn thấy mồ hôi nông phu trên luống cày và sự sống được đắp bồi bằng cái chết của sinh vật khác trong ngày lễ Hạ điền. Ngài kinh ngạc khi nhìn thấy nỗi khổ của kiếp nhân sinh ngoài thành và dừng xe lại hỏi Xa-nặc trước những cảnh tượng oái oăm mà ai cũng đều cho là bình thường, hiển nhiên trong đời sống: Cái gì vậy? Ai vậy? Có phải là người không? Ta có như vậy không? … Có lẽ nếu mọi người đều đầy đủ tiện nghi để được hạnh phúc như Thái tử Tất-đạt-đa thì Ngài đã không băn khoăn trăn trở đi tìm lối thoát làm gì? Cử chỉ yêu thương vuốt ve, chăm sóc của Ngài với các sinh vật bé nhỏ như chim bồ câu bị bắn cung, cừu con sắp bị giết để tế lễ là bài học về tính không sát hại, tôn trọng mạng sống và bình đẳng trong Phật giáo.

Trên tất cả là Ngài đồng hóa địa vị của một vị giáo chủ với môn đồ trong lời dạy quan trọng bậc nhất mà Ngài từng để lại: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành.” Kinh Pháp Hoa, phẩm Thọ ký và Thường Bất Khinh Bồ tát lại tiếp tục hình tượng hóa lời dạy này. Cảm hứng cho chân lý ấy hẳn là những hình ảnh hoa sen thấp cao khác nhau, vươn trong hồ nước nhưng không vướng bùn nhơ hiện ra trong tâm trí Đức Phật giống như Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng sanh mà ngày nay chúng ta còn thấy hồ sen kỷ niệm bên phải Bồ-đề Đạo Tràng, để rồi Ngài quyết định thuyết pháp cao siêu nhiệm mầu đến với chúng sanh. Cánh cửa giải thoát đã mở ra cho tất cả chúng sanh. Phật tánh bình đẳng là cơ sở quan trọng để sau này Ngài thâu nhận một cách rộng rãi mọi tầng lớp trong xã hội: thiếu niên, kẻ phạm tội giết người, phụ nữ, kỷ nữ, người bần tiện, ngoại đạo, hoàng tộc … vào trong giáo đoàn. Thật vĩ đại biết dường nào khi chúng ta nhìn thấy xã hội Ấn Độ ngày nay còn nặng đầu óc phân biệt giai cấp mà ngay từ thời tiền sử ấy, Đức Phật đã lên tiếng kêu gọi xóa bỏ giai cấp: “Tình thương là sợi dây liên lạc giữa người với người, không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng măn. Một người sinh ra không ai mang sẵn từ trong thai vòng dây ở cổ hay dấu Ti-ca trên trán.” Đức Phật đã đòi quyền làm người, nêu cao nhân phẩm mọi người. Sự việc Ngài đã cởi bỏ áo gấm tột bực cao sang của một Thái tử để khoác lên mình y bá nạp, cầm bát đi khất thực tân hang cùng, ngõ hẻm của đời sống là một sự hòa hợp lớn lao, thoát xác vĩ đại. Ngài là nhân tố tích cực quyết định trong việc cải sửa cái thành kiến khinh thường của vua Tịnh Phạn, đại diện cho tầng lớp cao quý nhất thời bấy giờ, đối với những người đi “xin ăn” này. Tất cả chỉ vì do đầu óc tham lam, muốn bóc lột và tự đề cao mình của con người mà nảy sinh ra hàng rào ngăn cách phân biệt trong quan hệ giữa người và người. Con người nên sống trong sự bình đẳng, hòa ái, tương trợ để hạnh phúc và giải thoát.

Đức Phật thành đạo là một bằng chứng xác đáng nhất cho chân lý: Niết-bàn tại thế hay: “Phiền não tức bồ đề, sanh tử tức Niết-bàn.” Mọi người khỏi phải chờ đợi đến kiếp nào khác để đạt được quả vị tối cao và dừng công cuộc tìm kiếm vô bổ đến một Thiên đường, Niết-bàn xa xôi, huyền diệu. Hoa sen Niết-bàn nở ngay trong vũng bùn lầy thế gian nhơ nhớp, ô trược. Phật ra đời ngay trong lòng thế gian đau khổ và lìa chúng sanh là không có Phật. Cũng một con đường ấy nhưng mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Với phàm phu, cõi đời này đầy rẫy ma chướng, ngũ trược ác thế nhưng với thánh nhân đây là bảo sở, là Phật quốc trang nghiêm, nghĩa là: Tâm tịnh, Phật độ tịnh. Chúng sanh mê mờ nên bị “Trần sử,” gây tạo thêm nhiều nghiệp chướng, xấu ác; góp phần tạo nên thế giới khổ đau, u tối nhưng bậc giác ngộ lại “Sử trần” chuyển hóa và thăng hoa cuộc đời.

Có một số học giả lại nghi ngại rằng: quả thật đối với hết thảy nhân loại và chúng sanh, Đức Phật tu hành thành đạo trở thành một đấng Đạo sư đáng tôn kính, nhưng đối với Phụ mẫu, vợ con, hoàng tộc và xã tắc, Ngài chưa hoàn thành trách nhiệm chăng? Xin thưa rằng: Không!!! Ngài là con người toàn hảo về giá trị luân lý và đạo đức.

Với Hoàng tộc, Ngài đã là một Thái tử xứng đáng, văn võ toàn tài, xuất chúng. Với Phụ mẫu Ngài là người con chí hiếu: chấp nhận lấy vợ và sinh con để có người nối dõi trước khi Ngài quyết định xuất gia dù biết trước làm như vậy là gây thêm khó khăn trở ngại cho Ngài vì ân ái buộc ràng. Sau này, Ngài thuyết pháp khiến Tịnh Phạn Vương đạt đến thành quả thứ ba trước khi băng hà. Ngài còn đích thân khiêng quan tài của vua cha.

Ngài đã bao phen lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, tiên nữ Maya. Khi đã nhập Niết-bàn, Ngài còn bật nắp kim quan để cho mẹ mình chiêm ngưỡng một phần tấm thân do cha mẹ đã tạo ra trong kiếp người lần cuối trước khi thi thể Ngài được hỏa táng tại Câu-thi-na. Dì Mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề được chấp nhận vào giáo đoàn dù Ngài biết trước rằng có những khó khăn phức tạp xảy ra khi chấp nhận nữ giới vào dòng thánh. Với vợ từ khi thành hôn, Ngài đã bao phen tâm sự, an ủi và gián tiếp báo trước rằng Ngài sẽ xuất gia một ngày không xa để mong nàng thông cảm, chấp nhận sự hy sinh, vắng bóng người chồng và nhờ đó nàng đã chịu đựng được sự đơn độc nhiều năm liền. Ngay trong đêm cuối cùng trước khi thành đạo, một lần nữa hình ảnh của công chúa Da-du-đà-la lại hiện ra vẫy gọi Ngài quay về với đời sống thế tục, điều đó chứng tỏ Ngài khó lòng quên được tình nghĩa, đời sống thủy chung và cố gắng lắm mới thoát khỏi vòng ân ái tục lụy. Khi thành đạo quay về thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài đã để cho Da-du-đà-la biểu lộ tình cảm tự nhiên theo ý thích của nàng du bao người lo lắng là làm như vậy sẽ tổn thương uy tín và suy giảm lòng tôn kính đối với một vị giáo chủ. Không lâu sau đó, Ngài chấp nhận cho Da-du-đà-la cùng Dì Mẫu thành lập Giáo đoàn Ni. Còn với con mình, Ngài sẵn sàng để cho con tự quyết định đời mình và chia gia tài theo ý con thích. Ngài chấp nhận thỉnh cầu của La-hầu-la, thâu nhận vào hàng thánh chúng. Vậy cả gia đình Ngài và Hoàng tộc đều có dự phần lợi lạc giải thoát: Tịnh Phạn Vương là vị Ưu-bà-tắc đầu tiên được chứng quả A-Na-Hàm, Tiên nữ Ma-Gia là vị đầu tiên được Phật thuyết pháp ngay chính thiên cung, Dì Mẫu và công nương Da-du-đà-la là phụ nữ đầu tiên được Ngài chấp nhận vào Giáo Hội và La-hầu-la là vị thiếu niên đầu tiên trở thành Sa-di và sau này là một trong thập đại đệ tử của Phật. Nhiều vị trong hoàng tộc theo bước chân của Ngài xuất gia đắc quả. Ngài đã bao phen ngăn cản nghiệp chướng chung của dòng họ Thích về thảm họa tiêu diệt nhưng rốt cuộc đành chịu thua trước tai họa “Lưu Ly Vương.” Ngài đã dạy mọi người bỏ đi cái ân ái, hệ lụy thường tình để đi đến tình thương rộng rãi đại đồng hơn cùng vạn loại và xóa bỏ đi cái ranh giới hẹp hòi của quốc gia, xã tắc vì nó là mầm mống của chiến tranh, xung đột, hãy nghĩ đến các nước láng giềng và cộng đồng người. Bao quy tắc luân lý được Ngài thiết đặt sau này cho quan hệ tốt đẹp giữa người và người cũng như bao giới luật mà Ngài chế định là nền tảng luân lý đạo đức cho một xã hội phồn vinh, hạnh phúc.

Đặc biệt Phật thành đạo là sự kiện đề cao giá trị nhân bản. Phật chứng quả ngay trong kiếp người, Phật là người giác ngộ; điều đó chứng tỏ con người có địa vị tối ưu để trở thành Phật như kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân thị tối thắng, năng sinh nhất thiết chư thiện pháp cố.” Được làm thân người là rất quý báu, khó khăn. Trong khi bao đạo giáo khác dạy con người phải hướng đến thần linh, phải trút bỏ đi kiếp người lỡ vướng mang, thì Đức Phật đã trả lại giá trị đích thực của kiếp người. Ngài là một bậc siêu nhân hơn tất cả mọi thần thánh mà loài người từng biết tới nhưng Ngài cũng mang một trái tim rất người. Ngài lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại, cả về nhân giới, tâm giới và siêu giới. Con người tự chịu trách nhiệm đối với cá nhân mình và hạnh phúc của chính mình chứ không có vấn đề ban phúc giáng họa từ một đấng tối cao. Đức Phật đã mang đến niềm tin, trí tuệ và giải thoát cho con người. Ảnh dụ “Người cùng tử” trong kinh Pháp Hoa là Đức Phật nhắc con người đừng đánh mất chính mình, hãy tìm và trở về với con người thật nơi chính mình. Đừng rồ dại vọng cầu nơi khác.

Một vấn đề mang tính chất thời đại mà nhân loại quan tâm là: bảo vệ môi trường sống. Đức Phật đã là chiến sĩ xung phong trên lãnh vực này. Ngài ra đời nơi một cành cây trong vườn Lâm-tỳ-ni, xuất gia tu học trên Khổ Hạnh Lâm, gắn bó với Sông Ni-liên-thuyền và ngồi thiền định trên bó cỏ, chứng quả dưới cội Bồ-đề khi sao mai vừa mới mọc. Sau đó Ngài chuyển pháp luân ở Vườn Lộc Uyển, an cư kiết hạ nhiều năm nơi làng mạc, rừng núi và cuối cùng Ngài Thị Tịch trên vùng Câu-thi-na còn hoang sơ thuở ấy. Ngài trải rộng tình thương đến tất cả mọi loài. Có lẽ do ảnh hưởng lớn của tinh thần tôn trọng sự sống nơi Ngài mà quan hệ giữa người và vật ở Ấn Độ rất thân thiện và xứ Phật còn có nhiều rừng nguyên sinh và số lượng cỏ cây, thú vật rất phong phú. Ngài sông hòa lẫn với thiên nhiên, thiên về những vẻ đẹp nơi bản chất tự nhiên chưa có bàn tay con người làm méo mó, dị dạng, lệch lạc đi. Tiếc rằng số lượng lớn nhân loại chưa chịu học tập và thực hành đầy đủ theo lời dạy của Ngài nên môi trường sống của chúng ta càng ngày càng tệ hại hơn và đưa đến sự khủng hoảng đến mức độ báo động về sự hủy hoại cuộc sống.

Phật thành đạo còn mang một ý nghĩa căn bản cho việc thiết lập một nền giáo dục toàn diện. Nền giáo dục cần phải đặt trên nền tảng của chuyển hóa, hướng thượng tinh thần, tâm thức con người. Tâm là chủ quyết định cho mọi hành động của con người. Con người là chủ thể xã hội. Vậy một nền giáo dục đích thực phải bắt đầu từ việc cải tạo tâm. Bao cuộc cách mạng xã hội đã thất bại vì chính những người làm cách mạng muốn chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội trong khi chưa làm chủ được tâm mình. Kinh nghiệm phong phú, quý giá và thực tiễn trong việc chế ngự và điều phục, quy hướng tâm và hiển lộ chơn tâm xuyên suốt quá trình 35 năm suy tư và 6 năm thiền định của Đức Phật, kho tàng giáo lý trong 49 năm thuyết pháp đều nhằm hướng đạo có hiệu quả cho mọi người tu tập đối trị tám vạn bốn ngàn hay vô lượng phiền não phát khởi từ nơi vọng tâm của con người. Đổi mới tư duy là yếu tố quyết định cho mọi công cuộc đổi mới. Chúng ta cũng nên dè dặt, cảnh giác trong mọi sự trá hình, lẩn khuất và ngụy biện của tà tâm và ma đạo. Đạo Phật với tinh thần vô ngã, vị tha, tứ vô lượng tâm, lục độ ba la mật sẽ cung cấp chất liệu tích cực cho sự nghiệp giáo dục và đưa xã hội loài người hướng đến Chân-Thiện-Mỹ và hiển lộ Niết-bàn tại thế.

Ngày nay, văn minh nhân loại đã vươn đến đỉnh cao, bao nhiêu nhà khoa học đã được cấp những bằng phát minh và đạt được giải thưởng danh dự nhưng thử hỏi xã hội loài người chúng ta đã thực sự yên vui hạnh phúc chưa? Đọc một trang báo, nghe một mẫu tin trên đài, thoáng nhìn vào màn ảnh ti vi là chúng ta thấy đầy dẫy những tệ nạn xã hội và nỗi đau khổ nhức nhối mà loài người còn đang gánh chịu: chiến tranh giữa các quốc gia, kỳ thị tôn giáo, sắc tộc, bệnh hoạn, thiên tai, môi trường sống trở nên khô cằn đang hủy diệt dần, buôn lậu, tệ nạn tham nhũng, quan liêu, bóc lột, tệ nạn xã hội, biểu hiện văn đồi trụy nhan nhãn, bao nhiêu người bế tắc tự tử … Vậy những phát minh, tiến bộ ấy về khoa học kỹ thuật đã giúp cho loài người được bao nhiêu? Tỉ số phần trăm của những người trên hành tinh này được hạnh phúc là bao nhiêu? Hai cuộc chiến tranh thế giới xảy ra trong thế kỷ vừa qua, hai quả bom nguyên tử nổ tung nơi 2 thành phố Nhật Bản Hiroshima và Nagasaka, bao chất độc màu da cam và bom mìn trong lòng đất hủy hoại thế giới khủng khiếp còn tệ hơn tất cả những cuộc chiến tranh phá hoại sự sống từ thời nguyên thủy đến thế kỷ xx. Chính lòng tham lam, ích kỷ, sân hận và si mê của loài người đang tiêu diệt con người. Có một số nền văn minh mới đã sản sinh ra những con người muốn thâu tóm cả thế gian vào lòng mình, nhẫn tâm giẫm lên nỗi thương đau của bao người khác và bất chấp mọi thứ hậu quả nghiêm trọng nào sẽ xảy ra cho thế giới này. Thử nhìn một số nước, chúng ta ngậm ngùi khi bao nhiêu cuộc chạy đua, cạnh tranh sinh tồn đã làm cho xã hội nhân loại xáo trộn. Văn minh Tây phương hiện đại đã làm mọi giá trị đảo lộn, chỉ còn một giá trị duy nhất được tôn thờ là vật chất, hiệu quả sản xuất, khối lượng hàng hóa. Con người càng ngày càng lún sâu vào sự nô lệ của vật dục và sống một cuộc sống tâm hồn khô cằn, trống vắng, đơn điệu, nhàm chán. Thời đại công nghiệp đã quay cuồng mọi người trong nhịp độ sống khẩn trương đến mức có những người không còn có phút giây dừng lại để suy nghĩ trước khi hành động. Nhân loại có còn tồn tại không nếu một quả bom nguyên tử thứ ba bùng nổ.

Một điều thật trớ trêu là trong khi văn minh, khoa học kỹ thuật phát triển cao đến mây xanh thì văn hóa tâm linh của con người lại lún xuống bùn sâu. Nhân loại đang ở trong thế lựa chọn: thay đổi để tồn tại hay mặc nhiên chấp nhận sự diệt vong. Vậy nhân ngày Phật thành đạo này, nhân loại hãy dừng lại một phút giây để nhớ đến Ngài, học hỏi từ sự thành đạo của Ngài để tìm ra giải pháp thiết thực cho những khủng hoảng thời đại. Đức Phật xuất hiện vì con người còn đau khổ. Ánh sáng chơn lý của Ngài vượt thời gian, không gian sáng soi khắp vũ trụ thiên thu bất diệt vì Ngài luôn quan tâm đến vấn đề muôn thuở của con người. Chính vô minh và tham ái là kẻ thù độc hại nhất của loài người. Câu nói của Cố Thủ Tướng Ấn Độ Jawaharlaf Nerhu là lời nhắc nhở canh cánh bên tai chúng ta khi Ông kêu gọi con người hiện đại hãy quay về với những chân lý mà Đức Phật Thích-ca đã phát hiện và tuyên bố với nhân loại cách đây hơn 2500 tại Ấn Độ:

“Chúng ta sống trong một kỷ nguyên xung đột và chiến tranh, hận thù và bạo lực ở khắp mọi nơi trên thế giới. Tất cả chúng ta cần thiết hơn bao giờ hết, phải nhớ lại bức thông điệp bất hủ của Đức Phật, người con vĩ đại nhất và cao cả nhất của xứ Ấn Độ, đã gởi đến chúng ta, đến các vị, đến tất cả mọi người trên thế giới. Bức thông điệp tuyên bố cách đây hơn 2500 năm, hiện nay vẫn sống động, vang động mãi trong tâm khảm chúng ta, cho chúng ta nguồn cảm hứng để đối phó với mọi khó khăn và rối ren, đang đe dọa tràn ngập làm chìm đắm chúng ta.”

Cùng với ý nghĩa ấy, cựu Tổng Thống Ấn Độ, tiến sĩ Radhakrishna cũng tuyên bố trước sự hiện diện 60 học giả danh tiếng thế giới trong cuộc hội thảo tại Tân Đề Ly, năm 1956:

“Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình, cho nên có thể nói rằng, nếu không vun trồng cho mình những đức tánh từ bi, bất bạo động thì loài người hủy hoại tất cả, hủy hoại hạnh phúc mình và chính bản thân mình nữa.”

Vậy hơn lúc nào hết, ngày nay cả nhân loại cần phải hướng về trong Ánh từ quang lan tỏa từ khi Phật thành đạo dưới cội cây Bồ Đề.

Hơn 25 thế kỷ trôi qua, thế giới đã trải qua bao cuộc đổi thay. Hôm nay chúng ta đến đây thì: núi vẫn là núi, sông vẫn là sông, khác một điều là chúng ta đã có ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật. Chúng ta đang thừa hưởng gia tài của Đấng Từ Phụ để lại. Nhớ đến công lao khó nhọc Ngài đã tìm ra Ánh Đạo Vàng sáng soi muôn loại, chúng ta không phải kỷ niệm Phật thành đạo trong một ngày, một giờ là đủ mà cần chuyển hiện, khơi nguồn sáng đó vào đời sống, vào thời đại từng giây, từng khắc, từng sát na, từng hơi thở đời mình. Công đức Ngài là vô lượng, vô biên, sự thành đạo của Ngài là cao quý, hy hữu như hoa Ưu-đàm-tất-la trăm ngàn năm mới nở một lần thì chúng ta khó có thể hiểu biết và bàn trọn vẹn về ý nghĩa của sự Thành đạo của Ngài. Chúng ta đang lần theo dấu vết hành trình Ngài và những kỷ niệm nơi Sông Ni-liên ngàn năm vẫn rì rào tâm sự, ngọn Tuyết Sơn trơ gan cùng tuế nguyệt, cây Bồ-đề thiêng liêng che chở tinh thần bao người chiêm bái, Tháp Đại Giác sừng sững uy nghiêm như bảo sở và Phật quốc giữa lòng nhân loại và hình tượng từ bi trí tuệ Ngài đang ngự nơi chánh điện và hỷ lạc trước sự trở về của những đứa con lạc loài bao năm tháng sẽ là hành trang tâm linh vô giá cho những người con Phật trên hành trình tu học. Chúng ta đang từng bước đến gần Ngài để tìm được phút giây hòa hợp trọn vẹn trong nền giao cảm với Ngài, với cây Bồ-đề và với thể tánh nhất như.

Nalanda,

Hướng đến ngày Phật Thành Đạo

Thích Nữ Liên Chương

 

GĐPT Chánh Pháp Sưu tầm

 

 Phật Đản

Tiếp xúc và cúng dường Phật Đản

Thich Thai Hoa 

Tiếp xúc với Tâm và nguyện Bồ Đề:

Là đệ tử Phật, chúng ta tiếp xúc với sự ra đời của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta là chúng ta có cơ hội tiếp xúc với tâm Bồ đề nơi Ngài và ở nơi mỗi chúng ta.

Nếu Đức Phật không có tâm Bồ đề, thì Ngài đã và sẽ không có mặt với chúng ta. Vì Ngài đến với chúng ta bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài có tự do trong khi đến và có tự do trong khi đi. Chúng ta đến với Ngài cũng bằng tâm và nguyện Bồ đề, nên Ngài mãi mãi có mặt ở trong mỗi chúng ta và chúng ta cũng mãi mãi có mặt ở trong Ngài.

Học hỏi và nghiên cứu các hệ thống kinh điển đã giúp cho ta biết rằng, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát Bồ đề tâm hành Bồ tát đạo rất lâu xa.  Lâu xa đến nỗi không thể dùng những con số của toán học để ước lượng hay tính đếm và cũng không thể nào dùng tri thức của con người để trắc lượng hay suy tưởng. Và cũng vì vậy mà Ngài đã thành Phật lâu lắm rồi, chứ không phải chỉ mới có đời nầy. Đức Phật xuất hiện cách đây hơn 26 thế kỷ, tại vườn Lâm tỳ ni, nước Nepal chỉ là vì bản nguyện độ sanh mà Đức Phật thị hiện đó thôi.

Nên chuyện ghi lại ở trong các kinh điển, Bồ tát Tất đạt đa tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời bên hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen và nói: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”, có chư Thiên trổi nhạc cúng dường và dùng những vòi nước hoa để phun rửa, khi Bồ tát Tất đạt đa ra đời là chuyện hoàn toàn có thật, chứ không phải là huyền thoại.

Có thật, vì Ngài xuất hiện giữa cõi đời nầy với tư cách của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, có đầy đủ đại bi, đại trí, đại nguyện và đại hạnh của tâm bồ đề, qua hình thức của một người phàm, mà không phải phàm, để đem lại lợi ích cho cuộc đời, chứ không phải là chuyện của một người phàm bình thường khi sinh ra giữa cuộc đời.

Nên, những đặc điểm khi Bồ tát Tất đạt đa xuất hiện được ghi chép ở trong kinh điển là chuyện có thật. Có thật, vì đó là chuyện của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ giáng trần, mà không phải là chuyện của một người thường.

Và đó là chuyện có thật mà không phải là huyền thoại, vì mọi việc làm và biểu hiện của một người lớn trong đôi mắt trẻ thơ đều là khó hiểu và đều trở thành huyền thoại đối với chúng cả!

Chúng ta vì nghiệp lực mà sinh ra, nên chúng ta không có được cái vinh hạnh đó như Bồ tát. Vì vậy, chúng ta không thể dùng con mắt phàm phu để mà nhìn Bồ tát, hoặc so sánh về một bậc Giác ngộ.

Nếu ta đem con mắt phàm phu, con mắt của nghiệp lực mà nhìn những biểu hiện của bậc Giác ngộ là chúng ta không thể nào hiểu nổi và hiểu hết. Do không hiểu nổi và hiểu hết bằng khả năng tri thức của con người, nên chúng ta cho là huyền thoại.

Nhưng, đúng với phẩm chất của một vị bồ tát có đầy đủ hạnh và nguyện lớn của tâm bồ đề, khi xuất hiện giữa thế gian, để đem lại lợi ích cho cuộc đời hay cho đa số, thì việc Bồ tát Tất đạt đa, khi ra đời từ hông phải của hoàng hậu Maya, đi bảy bước trên bảy hoa sen, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất và tuyên bố; “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” là sự kiện chẳng huyền thoại chút nào.

Nên, những biểu hiện khác thường trong ngày đản sanh của Đức Phật, nếu chúng ta trầm tĩnh một chút là chúng ta có thể thấy, hiểu và tiếp xúc được. Chúng ta hãy tiếp xúc với những sự kiện đặc thù trong ngày Đức Phật đản sanh ấy, bằng tâm hạnh và nguyện bồ đề, chứ không nên tiếp xúc với những sự kiện ấy với tâm và hạnh mang đầy tham dục và tri thức ngã tính.

Nếu chúng ta tiếp xúc với những sự kiện ấy bằng tâm đầy tham dục và tri thức ngã tính, thì cái thấy và cái biết của chúng ta sẽ chuyển tải đến cho chúng ta những chất liệu đầy vô minh. Chúng ta sẽ hiểu Phật Đản theo cách hiểu vô minh của chúng ta và chúng ta sẽ hành hoạt theo vô minh trong ngày Phật Đản.

Thị hiện mà không phải buộc ràng:

Đức Phật là đấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời nầy, rồi cũng phải vào thai mẹ để nằm, chúng ta nằm chín tháng mười ngày, còn Ngài thì ở trong bụng mẹ đến mười tháng. Nằm mười tháng là biểu tượng cho viên mãn hạnh nguyện độ sanh của Ngài trong mười pháp giới và có khả năng đưa chín pháp giới nhập vào nhất chơn pháp giới là Phật giới.

Ngài nằm trong bụng mẹ với bản nguyện của bồ đề, nên Ngài thấy hạnh phúc, còn chúng ta nằm trong bụng mẹ bằng nghiệp lực, nên mất tự do và đau khổ. Không những chúng ta nằm trong bụng mẹ chín tháng mười ngày mới khổ, mà chỉ nằm một ngày thôi, một giờ thôi, cũng đã thấy khổ rồi, vì sao? Vì cái khổ của chúng ta là cái khổ do nghiệp bẩm sinh.

Đức Phật nói rằng, cái khổ bị sinh là sự thật của khổ và lại là cái khổ bậc nhất trong mọi cái khổ. Đức Phật thương cái khổ bị sinh của chúng sinh, nên Ngài mới thị hiện giữa cuộc đời này đề dạy dỗ chúng sinh, hướng dẫn cho chúng sinh, cách sống thế nào để thoát ly cái khổ do nghiệp bảm sinh ấy.

Chỉ vì chúng sinh không nghe hoặc nghe mà không hiểu, không thực tập để sống, không chịu thực hành xả ly, cứ bám víu hết cái này đến cái khác, nên bị khổ đau mãi hoài; và cũng vì thương cái khổ của chúng sanh, nên Đức Phật cũng phải kham nhẫn để giáo hóa chúng sinh, dưới nhiều hình thức và nhiều thời kỳ khác nhau.

Vì vậy, ở trên đời không ai thương chúng ta bằng Phật thương chúng ta. Cha mẹ chỉ thương chúng ta một đời và có thể giúp ta thoát khỏi khổ cơm áo, còn Phật thương chúng ta nhiều đời và có rất nhiều phương tiện giúp cho chúng ta thoát khỏi khổ đau sinh tử, đến chỗ an toàn.

Kinh Pháp Hoa có dạy: Khi Phật giảng kinh Pháp hoa, có năm ngàn vị Thanh văn bỏ ra về. Phật thương họ, nhưng không cản. Vì Ngài biết nhân duyên của họ chưa đủ để tiếp nhận diệu pháp trong thời điểm nầy. Nhưng sau đó, Ngài cũng tìm đủ mọi cách giáo hóa và đưa họ về với Phật đạo, để tu tập và đều thọ ký cho họ thành những bậc Giác ngộ trong tương lai.

Ngài nói với các vị đó rằng: tôi đã từng giáo hóa các thầy khi các thầy là những vị Bồ tát, còn tôi là Sadi thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai, vào thời ấy, vì quý vị ham chơi, nên quí vị mãi trôi lăn cho đến bây giờ. Quý vị cũng đã từng biết ít cho là đủ, bỏ điều cao quí, thỏa mãn với những thành quả tầm thường. Giờ đây, tôi đã thành Phật và tiếp tục giáo hóa cho các vị và tôi không hề bỏ quí vị, vì quí vị là những người rất đáng thương và cần phải quan tâm để dìu dắt.

Chúng ta thấy tình thương của Đức Phật đối với chúng sanh là cao cả và hiếm có trong đời. Tình thương của Đức Phật do đâu mà có? Do từ nơi tâm bồ đề mà có; từ nơi trí tuệ mà hiện khởi và từ nơi hạnh kham nhẫn mà tựu thành.

Vì tâm và hạnh của Ngài như vậy, nên Ngài đã được chư thiên và loài người ca ngợi là đấng Đại Từ, Đại Bi đối với chư thiên, loài người và hết thảy muôn loài.

Vì vậy, cúng dường Phật Đản là chúng ta tiếp xúc cho được ý nghĩa cao quí đó nơi tâm và hạnh Bồ Đề của Ngài và mỗi phật tử chúng ta cũng phải thực tập hạnh thị hiện và kham nhẫn của Ngài để cúng dường Ngài nhân ngày Phật Đản.

Thuận theo chánh Pháp:

 

Tại sao Đức Phật đản sinh từ hông phải của mẹ là Hoàng hậu Maya? Sinh ra phía hông phải là tượng trưng cho sự có mặt của Ngài là thuận theo chánh pháp và dìu dắt chúng sanh đi theo chánh pháp.

Chánh pháp là pháp nêu rõ sự thật về khổ, sự thật về nguyên nhân sinh khởi khổ, sự thật về khổ chấm dứt và sự thật về con đường thoát khổ.

Sự thật về khổ là nhân quả của khổ luôn luôn cùng nhau tiếp diễn trong đời sống của mỗi chúng sanh dưới nhiều hình thức biến hoại và sinh thành luân chuyển khác nhau. Sự thật nguyên nhân sinh khởi khổ là tham sân si, vô minh và chấp ngã. Sự thật về khổ chấm dứt là sự an lạc của Niết bàn. Sự thật về con đường thoát khổ, chính là Bát chánh đạo. Đi theo con đường diệt khổ, gọi là thuận theo chánh pháp. Do thuận theo chánh pháp mà mọi khổ đau đều được chấm dứt.


Nên khi nhập thai, Đức Phật đã nhập vào hông phải của hoàng hậu Maya và khi xuất thai, Ngài cũng xuất thai từ hông phải của hoàng hậu Maya, nhằm biểu hiện rằng, nhập hay xuất, ẩn hay hiện gì của Đức Phật giữa cuộc đời đều là thuận theo chánh pháp hay phù hợp với chân lý.

Và chỉ có chánh pháp mới có khả năng dựng đứng lại những gì do mọi tà thuyết giữa thế gian đã làm cho thế gian nghiêng ngửa, xiêu vẹo; chỉ có chánh pháp mới có khả năng hàn gắn lại những gì do các tà thuyết giữa thế gian làm cho thế gian đỗ vỡ, mất đoàn kết; chỉ có chánh pháp mới có khả năng dẫn đạo thế gian đi lên và chỉ có chánh pháp mới là ánh sáng đích thật, giúp cho mọi người trong thế gian thấy rõ đâu là sự thật của khổ đau và hạnh phúc để tự chọn lấy con đường và lên đường.

Bảy bước chân đi:

Bảy bước đi của Bồ tát Tất đạt đa trong ngày thị hiện đản sanh là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ. Hay nói theo thuật ngữ chuyên môn của Phật học là Thất giác chi hoặc Thất bồ đề phần. Hễ bất cứ ai thực tập thành tựu được bảy yếu tố giác ngộ nầy, thì vị đó có cơ hội trở thành bậc Giác ngộ hay trở thành một vị Phật.

Qua các kinh điển cho chúng ta biết, không riêng gì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thị hiện đản sinh Ngài đi bảy bước, trên bảy hoa sen, mà bất cứ Đức Phật nào dù trong quá khứ hay trong tương lai, khi thị hiện đản sanh với tư cách của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, cũng đều đi bảy bước trên bảy hoa sen vậy.

Hoa sen là tiêu biểu cho sự vô nhiễm. Nghĩa là Bồ tát Nhất sanh bổ xứ sinh ra giữa thế gian, nhưng không bị những bụi bặm của thế gian làm cho ô nhiễm, mà trái lại còn có khả năng chuyển hóa những bụi bặm của thế gian thành hương thơm tinh khiết.

Bảy bước trên bảy hoa sen ấy là tiêu biểu cho bảy yếu tố giác ngộ mà một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ thực tập thành công và sẽ thành tựu bậc giác ngộ ngay trong cuộc đời đầy ô nhiễm nầy. Bảy yếu tố giác ngộ ấy gồm.

1. Trạch pháp giác chi:

Trạch pháp giác chi là chi phần dẫn đến Thánh đạo vô lậu, do nội dung giác chiếu, chọn lựa gồm có đủ Quán như ý túc, Tuệ căn, Tuệ lực và có sự quyết trạch giác phần, khiến cho các phiền não đã sanh liền diệt, những phiền não chưa sanh, thì vĩnh viễn không sanh, khiến bồ đề chưa sanh thì liền sanh và nếu đã sanh thì sẽ dẫn đến viên mãn.

Nên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi có mặt nơi thế giới Ta bà này là Ngài đã lưu trú nơi cung trời Đâu suất để có cơ hội quán chiếu và lựa chọn cõi nước, dòng dõi, cha mẹ để giáng thần và vườn Lâm tỳ ni để đản sanh.

Như vậy, chúng ta thấy, yếu tố trạch pháp rất quan trọng. Khi xuât hiện nơi thế giới nầy rồi, Ngài chọn tiếp chỗ để Ngài hành thiền và thành đạo là Bồ đề Đạo tràng, nơi chuyển vận Pháp luân là Lộc Uyển, và nơi Niết Bàn là rừng Sa la ở Kusinaga.


Như vậy, chúng ta tiếp xúc với Phật đản là chúng ta tiếp xúc với khả năng trạch pháp của Ngài. Nhờ thực hành trạch pháp mà Đức Phật đã thành công trên bước đường giác ngộ và giáo hóa chúng sanh.

Do đó, trạch pháp giác chi là tiêu biểu cho bước đi thứ nhất trong ngày thị hiện đản sanh của Ngài.

Vì vậy, là Phật tử chúng ta phải thực tập trạch pháp giác chi, để có khả năng loại bỏ tham dục, chấp ngã, loại bỏ mê tín, cuồng tín; loại bỏ những tà sư ác hữu, thân cận những bậc thiện hữu tri thức, xuất hiện đúng thời, đúng chỗ đã chọn lựa để thăng tiến đời sống giác ngộ, giải thoát, làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.

Nếu chúng ta sống thiếu trạch pháp, thì chúng ta làm việc không đúng thời, nói năng không đúng lúc và không đúng chánh pháp, chúng ta sẽ nhận thầy tà làm thầy chánh, bạn ác làm bạn hiền, làm thân hữu để rồi đi dần vào con đường lầm lỗi ở trong sanh tử luân hồi, khó mong thoát khỏi.

Nên, trong mùa Phật Đản, phật tử chúng ta thực hành trạch pháp giác chi, để khởi sinh chất liệu giác ngộ, nhằm cúng dường Đức Phật và phụng sự chánh pháp.  

2- Tinh tấn giác chi:

Tinh tấn giác chi là nỗ lực biến trạch pháp giác chi, trở thành hiện thực trong đời sống của mình, nên gọi là Tinh tấn giác chi.

Nhờ có Tinh tấn giác chi mà các điều ác trong tâm đã sanh liền diệt, những điều ác chưa sanh, thì vĩnh viễn không sanh; những điều thiện nơi tâm chưa sanh, thì liền sanh; những điều thiện nơi tâm đã sanh, liền thăng tiến đến chỗ viên mãn.

Tinh tấn giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ hai trong ngày Đức Phật thị hiện đản sanh.

Lễ Phật Đản, chúng ta tổ chức dựng lễ đài để cúng dường là đúng, tổ chức lạy Phật để cúng dường là đúng, tổ chức tụng kinh để cúng dường là đúng, nhưng tất cả những tổ chức đó phải có nội dung thật sự của trạch pháp giác chi và tinh tấn giác chi, chứ không phải chỉ là hình thức hay đối phó.

Nếu ta tổ chức chỉ để đối phó và hình thức, thì ta sẽ bỏ mất cơ hội tiếp xúc với ý nghĩa đích thật của Phật Đản.

Ngày Phật đản rất nhiều người thiếu may mắn, vì họ phải lao đầu vào công việc làm ăn vất vả, có những vị đang đắm chìm vào công việc sát sanh tại các lò mổ, lò quay, hồ cá, hay bận rộn với việc điều khiển đất nước, tính toán lợi hại ở nơi các doanh nghiệp hoặc ở nơi thương trường, thì quả thật là không may cho họ.

Nhưng cũng có những vị, ngày Phật đản có cơ hội đến chùa mà không hết lòng thực tập, trạch pháp giác, tinh tấn giác chi, khiến tâm ý không lắng yên, nói và làm không đúng chánh pháp, thì quả thật không có sự phí phạm và rủi ro nào có thể so sánh.

Ngày Phật Đản, ta đã phát tâm đi chùa lạy Phật, tụng kinh thì dứt khoát ta đi và đến chùa lạy Phật, tụng kinh một cách thấu đáo hết lòng, để cho cái đi chùa và cái lạy Phật, tụng kinh của ta, có kết quả như ta mong muốn và việc cúng dường lên Đức Phật của ta có lợi lạc ngay cho bản thân của ta đời nầy và đời sau.

Nếu ngày Phật đản, ta không đủ điều kiện đến chùa, thì ngày hôm đó ta lạy Phật ở nhà, nếu ở nhà chưa có thờ Phật, thì ta ngồi thật yên để lạy Phật mười phương và lạy Phật trong tâm ta, khiến cho mọi ý nghĩ xấu ác nơi tâm ta rơi rụng.

Nếu ta nỗ lực làm được như thế, thì ta vẫn có cơ hội tiếp xúc với bước chân thứ nhất và thứ hai của Đức Phật trong ngày đản sanh của Ngài. Đó là ý nghĩa của tinh tấn giác chi. Và ta đem chất liệu trạch pháp giác chi và tinh tấn giác chi ấy mà dâng lên cúng dường Phật đản.
3- Hỷ giác chi:

Hỷ giác chi là chi phần giác chiếu đối với hỷ. Hỷ là vui thích. Sự vui thích do quá trình thực hành trạch pháp giác và tinh tấn giác mà sinh khởi. Như vậy, hỷ là niềm vui có cơ sở từ giác ngộ và để giác ngộ, chứ không phải niềm vui sinh khởi từ vô minh và mù quáng. Nói cách khác, do thực tập đời sống tỉnh giác, khiến niềm vui sinh khởi.

Hỷ giác chi là tiêu biểu bước đi thứ ba của Đức Phật trong ngày Ngài đản sanh. Nên, ngày Phật Đản, ta hãy thực tập đời sống tỉnh thức và đem niềm vui do sự tỉnh thức đem lại để cúng dường ngày đản sanh của Đức Phật. Cúng dường như vậy, gọi là sự cúng dường tối thượng.

Mùa Phật đản các Giáo hội, nên tổ chức những ngày thực tập đời sống tỉnh thức, đời sống vị tha vô ngã, cho các giới phật tử, để cho các giới phật tử có niềm vui hỷ lạc ở trong chánh pháp, khiến cho tâm thức của họ sáng lên ở trong Phật pháp, hơn là tổ chức cúng dường Phật đản có hình thức khoa trương và bận rộn.

Tổ chức Phật đản mang tính hình thức khoa trương và bận rộn, thì tiêu hao tài lực và nhân lực rất nhiều, nhưng hiệu quả chuyển hóa tâm thức khổ đau cho chúng sanh cũng như đóng góp vào sự an bình cho xã hội thì lại rất khiêm tốn.

Vì vậy, hỷ giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ ba, trong ngày thị hiện đản sanh của Đức Phật.

4- Khinh an giác chi:

Khinh an là tâm nhẹ nhàng, thanh thoát do thực hành các pháp phần giác ngộ đem lại. Trong ngày Phật Đản, ta muốn có tâm nầy để cúng dường lên Đức Phật, thì ta phải thực tập buông bỏ những lời nói không dễ thương, những cử chỉ và hành động không dễ thương giữa ta với mọi người và ngay cả muôn vật nữa.

Và quan trọng hơn hết là ta phải thực tập buông bỏ triệt để những hạt giống tham dục, hận thù, hờn oán, trách móc, mù quáng, nghi ngờ và ích kỷ ở nơi tâm ta, khiến cho tâm ta nhẹ nhàng và thanh thoát, ta hãy đem chất liệu nhẹ nhàng và thanh thoát ấy để cúng dường ngày Phật Đản sanh.

Ấy mới là sự cúng dường tối thượng.
Khinh an giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ tư, trong ngày thị hiện đản sanh của Đức Phật.

5. Niệm giác chi:

Niệm giác chi là duy trì năng lượng của ý thức tỉnh giác hiện tiền. Các yếu tố trạch pháp, tấn giác, hỷ và khinh an được duy trì bởi ý thức tỉnh giác hiện tiền, ta đem ý thức duy trì năng lượng tỉnh giác hiện tiền ấy do sự thực tập của ta mà có được, để cúng dường Đức Phật trong ngày đản sanh của Ngài, ấy là sự cúng dường Phật đản tối thượng.

Niệm giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ năm, trong ngày thị hiện đản sanh của Đức Phật.

6. Định giác chi:

Định giác chi là chi phần giác ngộ ở trong thiền định. Trong chi phần nầy có mặt của các niệm và định như niệm xứ, niệm như ý túc, niệm căn, niệm lực, định căn, định lực. Nhờ thực tập các niệm và định nầy sung mãn, chúng sẽ làm điều kiện để định giác chi sinh khởi.

Mỗi khi trong đời sống của mỗi phật tử chúng ta đã có định giác chi, thì ta sẽ có những bước đi vững vàng trên con đường giác ngộ. Ta sẽ không bị các dục thế gian lôi cuốn, không bị mọi luận điểm thị phi của thế gian chi phối và ngăn cản .

 

Phật tử chúng ta phải thực tập giác chiếu, để trong đời sống của mỗi chúng ta có chất liệu của định giác chi và ta đem chất liệu của định giác chi ấy để cúng dường Phật đản, thì hiệu quả cúng dường của chúng ta có tác dụng làm cho phật pháp trường tồn để chúng sanh lợi lạc. Cúng dường như vậy chính là sự cúng dường Phật đản tối thượng.

Định giác chi là tiêu biểu cho bước chân thứ sáu, trong ngày thị hiện đản sanh của Đức Phật.

7-Hành xả giác:

Hành giả giác chi là chi phần giác chiếu đối với xả. Xả là buông bỏ các tư niệm sai lầm liên hệ đến vô minh, liên hệ đến tham dục, liên hệ đến nhân duyên của sinh tử luân hồi. Hành xả là không đi theo hành nghiệp mê lầm của sinh tử, mà đi theo tỉnh giác, đi theo hạnh nguyện thoát ly sanh tử để độ đời.

Bất cứ ai thực tập được bảy chất liệu hay bảy bước đi trên con đường giác ngộ như thế một cách trọn vẹn, thì vị ấy có đủ điều kiện để tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nghĩa trên trời dưới đất, ta là vị độc tôn đối với bảy chất liệu giác ngộ.

Nên, ai thực hành đời sống giác ngộ viên mãn bảy chất liệu như vậy, là vị ấy độc tôn trong thế gian, được thế gian tôn kính, vì sao?

Vì vị ấy, sẽ thoát ly sinh tử ngay trong đời nầy, thoát ly hoàn toàn khổ đau do tham dục đem lại, hoàn toàn không còn bị tái sanh đời sau; có khả năng chuyển vận bánh xe chánh pháp để độ đời và có khả năng rống lên tiếng rống sư tử, khiến cho mọi sinh hoạt theo bản năng thú tính giữa thế gian đều bị rơi rụng, mọi tà kiến đều bị nhiếp phục, chánh kiến hiển bày.

 

Như vậy, khi đản sanh, Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên bố “thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” là có gốc rễ từ sự thực hành ở nơi bảy yếu tố giác ngộ nầy mà thuật ngữ chuyên môn của Phật học gọi là Thất bồ đề phần hay Thất giác chi.

Bảy yếu tố giác ngộ nầy là bảy tiến trình tu tập thiền định và quán chiếu dẫn đến đoạn trừ các lậu hoặc ở nơi tâm, khiến thành tựu các chất liệu của Thánh đạo vô lậu của tâm giác ngộ và giải thoát. Nên, khi ra đời Bồ tát Tất đạt đa, tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bước đi bảy bước, trên bảy hoa sen là tiêu biểu cho tư cách của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, sẽ thành tựu Phật hay bậc Giác ngộ do bảy yếu tố giác ngộ đem lại, khiến không còn bị nhiễm ô phiền não ngay trong đời nầy.

Tuy nhiên, ta biết rằng ở trong thế giới trời người không một ai thành tựu được bảy bước đi giác ngộ ấy một cách dễ dàng, và không một ai có khả năng tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” mang tính thuyết phục và hấp dẫn như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài mới đản sanh. Vì sao? Vì chính như Ngài đã nói: “Những gì Ngài nói là Ngài đã làm và những gì Ngài đã làm, thì Ngài mới nói”.

Vậy, mùa Phật Đản trở về, phật tử chúng ta, cố gắng tu học một cách hết lòng, sống và thực tập theo lời Phật dạy một cách sâu sắc, để chúng ta có cơ hội tiếp xúc với những gì mà đức Phật đã hiến tặng cho chúng ta và chúng ta cũng có cơ hội dâng lên cúng dường Ngài, nhân ngày đản sanh với những gì mà chúng ta đang có được trong sự thực tập.

Và nhất là chúng ta cần phải thực tập bảy bước đi của Ngài trong đời sống của mỗi chúng ta, cho đến khi nào chúng ta có khả năng tự do đối với sinh tử.

Thực tập bảy bước đi của Đức Phật trong đời sống của mỗi chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta có thể thực tập trong lúc thở vào, thở ra hay đi đứng nằm ngồi, nói cười, ăn uống, làm việc và suy nghĩ.

Qua những hành hoạt như thế, chúng ta có thể tiếp xúc với Đức Phật mỗi ngày và mỗi ngày ta đều cúng dường lên Ngài bằng tất cả sự thực tập của mỗi chúng ta và chúng ta thực tập như vậy là chúng ta cũng đã làm cho Đức Phật trong ta đang và sẽ đản sanh vậy.

Vậy, ngày Phật Đản, chúng ta phải làm thế nào, để Đức Phật thật sự có mặt với chúng ta, ngay trong đời sống qua bảy bước đi của Ngài.

 

Chúng ta thực tập được như vậy là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày Phật Đản một cách có ý nghĩa. Trên đài sen, Đức Phật sẽ nhìn chúng ta mà mỉm cười, tin tưởng và thương quý!

 

Thích Thái Hòa 

 

***

{youtube}v2eOLbb-foc{/youtube

THÁI ĐỘ CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC

PHẬT GIÁO QUỐC DOANH (GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM).

 

Vấn đề Giáo hội Phật giáo nằm trong Mặt trận tổ quốc, tôi không chấp nhận. Còn vấn đề liên hiệp giữa hai giáo hội (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Phật Giáo Quốc Doanh). Tôi nói lập trường của chúng tôi là không có vấn đề liên hiệp. Phật Giáo Quốc Doanh (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam) là thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đó là một tổ chức chính trị; chúng tôi không làm chính trị, không liên hiệp với bất cứ tổ chức chính trị nào.

Rồi người ta có nói rằng trong qui chế, trong hiến pháp mình thì đảng cộng sản lãnh đạo tất cả. Tôi nói tôi biết điểm đó. Tôi còn biết Lenin đã nói "đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng". Lenin nói, cán bộ cộng sản nào mà đàn áp tôn giáo là phản động. Lenin không chấp nhận chuyện đàn áp tôn giáo; trong cộng sản không có chuyện đàn áp tôn giáo, đó là Lenin đã chỉ thị. "đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng" có nghĩa là tôn giáo là một công cụ chính trị của đảng. Vì đảng không đủ khả năng tập họp, phải mượn tay tôn giáo tập họp dùm. Mà tôi không bao giờ để cho Phật giáo làm công cụ cho bất cứ đảng phái chính trị nào.

Như Liên xô, một đảng phái chính trị, 70 năm thì sụp. Cứ cho là đảng cộng sản Việt Nam tồn tại 1000 năm nữa đi, tôi cũng không bao giờ đem 2500 năm lịch sử truyền thừa Phật giáo ra làm công cụ cho bất cứ đảng phái nào. Tôi còn nói: “nếu mà lời nói này của tôi là tự đào hố chôn mình, tôi vẫn sẵn sàng tự chôn mình, chứ không thể chấp nhận chuyện đó.

Còn nếu nói là luật pháp, đúng, tôi tôn trọng luật pháp, nhưng luật pháp mà xâm phạm lý tưởng của tôi, tôi không chấp nhận cái luật pháp đó, chứ đừng có dùng chữ luật pháp với tôi”.

Đúng là ở trong đất nước nào thì phải tôn trọng luật pháp đó, nhưng nếu tự mình đặt ra luật pháp để dùng luật pháp đó xâm phạm tới giá trị, xâm phạm lý tuởng của người khác thì tôi không chấp nhận luật pháp đó, tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi đã từng đứng trước bản án tử hình rồi, tôi không sợ, tôi chấp nhận nó. Đây không phải tôi thách thức, mà là vấn đề lý tưởng của mình…”

NAM MÔ ĐẠI CƯỜNG TINH TẤN DŨNG MÃNH PHẬT.

Trích bài "Định hướng tương lai với thế hệ Tăng sỹ trẻ" của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nói với Tăng Sinh Thừa Thiên Huế.

------------

Nguồn: Duyên Giác Ngộ___

Người Sưu tầm

Subcategories